Sau đại dịch COVID-19, ngành du lịch bắt đầu phục hồi sau thời gian đóng băng dài. Từ đây, một xu hướng du lịch chữa lành mới cũng đã được bùng nổ, là ngành Du lịch sức khoẻ. Vậy lĩnh vực du lịch chuyên về sức khoẻ này có điểm gì đặc biệt? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết này.
Việt Nam đã đạt được rất nhiều danh hiệu từ các tổ chức giải thưởng du lịch toàn cầu uy tín như: Điểm đến du lịch châu Á 4 năm liền; điểm đến Golf tốt nhất; điểm đến hàng đầu về di sản; điểm đến hàng đầu về ẩm thực; v.v. Bên cạnh đó, Việt Nam còn là đất nước giàu tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, hệ thống cây dược liệu, nhiều chùa, tịnh xá với hệ thống thiền viện có cảnh quan hấp dẫn. Đây đều là những điều kiện tiềm năng cho Việt Nam có thể phát triển ngành Du lịch sức khoẻ và biến ngành này trở thành thế mạnh để tăng sức cạnh tranh trên thị trường Du lịch thế giới. Cùng TBD tìm hiểu rõ về lĩnh vực tiềm năng này trong các phần tiếp theo nhé.
Khái niệm Du lịch sức khoẻ là gì?
Wellness Tourism được dịch sang tiếng Việt là Du lịch sức khoẻ. Trong đó, từ “wellness” có hàm nghĩa bao gồm “healthy” (sức khoẻ thể chất) và “spiritual” (tinh thần). Vậy nên, chúng ta có thể hiểu Du lịch sức khoẻ là một hướng đi mới của lĩnh vực du lịch, nhắm đến sự cân bằng giữa sức khoẻ thể chất và sức khoẻ tinh thần của người trải nghiệm hình thức du lịch này.
Các hoạt động của ngành Du lịch sức khoẻ sẽ tập trung thiết kế những tour hoạt động để tạo nên sự cân bằng hài hoà giữa những hoạt động khám phá truyền thống và các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, trị liệu, nghỉ dưỡng, v.v. Với điểm đặc biệt này, hoạt động du lịch sức khoẻ có thể tạo nên được những khoảnh khắc thư giãn lắng đọng giúp xua tan mệt mỏi, phục hồi năng lượng và tinh thần cho từng vị khách. Từ đó, để lại những dấu ấn khó phai trong lòng của những du khách đến trải nghiệm. Vậy nên, loại hình này còn được gọi với tên du lịch chữa lành.
Lĩnh vực Du lịch sức khoẻ phát triển trên thế giới như thế nào?
Dựa trên báo cáo của tổ chức Global Wellness Institute (GWI), trong khoảng thời gian 5 năm, từ năm 2017 đến 2021, ngành du lịch sức khỏe toàn cầu đã đạt mức doanh thu 639 tỷ USD. Và dự kiến sẽ tăng lên 919 tỷ USD vào năm 2024. Trong đó, châu Á là một thị trường vô cùng tiềm năng khi dẫn đầu cả về số lượng chuyến đi lẫn doanh thu du lịch trong suốt 5 năm qua.
Điều đáng nói là xu hướng phát triển này được tạo nên từ những vùng vốn nằm cách xa những thành phố lớn, hay có thể gọi là “khu vực nghèo nàn”. Chẳng hạn như, Yufuin (Oita, Nhật Bản) từ một làng quê có xuất phát điểm kinh tế thấp đã trở thành điểm sáng trong ngành Du lịch sức khoẻ với sản phẩm suối nước khoáng nóng kết hợp với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ khác đi cùng.
Yufuin có diện tích tự nhiên là khoảng 1.800 ha với dân số khoảng 10.000 người. Nhưng vào năm 2019, Yufuin đã đón tới gần 4,5 triệu lượt du khách. Trong đó có gần 3,5 triệu lượt khách tham quan trong ngày. Ước tính trung bình mỗi ngày Yufuin đón hơn 12.000 lượt khách, nhiều hơn dân số của làng. Thu nhập từ du lịch năm 2019 của người dân địa phương này đạt hơn 16 tỷ Yên Nhật, tương đương gần 15 triệu USD (khoảng 340 tỷ đồng). Đây quả thực là một kỳ tích đáng nể của một địa phương nghèo. Được đà thành công, Nhật Bản đã tận dụng tiềm năng “suối nước khoáng nóng” để phát triển đến 27.000 điểm tắm khoáng nóng. Kết quả doanh thu ước tính đạt được hàng năm của loại hình kinh doanh tắm khoáng nóng của Nhật Bản khoảng 13 tỷ USD/năm.
Những động lực phát triển của ngành Du lịch này
Cuộc sống hiện đại phát triển nhanh chóng tạo nên nhiều áp lực lớn cho con người ngày nay. Vậy nên, ngày càng có nhiều điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ “mọc” lên ở nhiều nơi trên thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu cân bằng cảm xúc đang gia tăng mạnh.
Những điểm đến này giúp giải toả áp lực cho du khách nhờ vào liệu pháp chăm sóc cơ thể và spa với khoa học (ví dụ như tư vấn) và tinh thần (ví dụ như yoga, thiền định), hỗ trợ toàn diện cho sức khỏe thể chất (ví dụ như thực đơn ăn kiêng). Với một nhu cầu sức khoẻ ngày càng phát triển theo xã hội, chính là động lực lớn để những loại hình du lịch chữa lành sẽ tiếp tục tăng trưởng trong tương lai.